Sala Garden – Thập bát La Hán là các đệ tử của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Họ là những người ở lại thế gian để hộ Pháp. Ban đầu có 16 vị, về sau được thêm vào 2 vị. Đời nhà Thanh, người ta tạc tượng 16 vị La Hán. Xuất phát từ lòng tôn kính nên họ đã thêm Khánh Hữu tôn giả và đại sư Huyền Trang vào thành 18 vị. Vào năm Thanh Càn Long, Hoàng đế đã xác định vị La Hán thứ 17 và 18 là La Hán Hàng Long và La Hán Phục Hổ. Ngày nay, tín đồ Phật giáo tin rằng 18 vị La Hán gồm:

Thập Bát La Hán
Thập Bát La Hán

1. Vị La Hán thứ nhất – Tôn giả Bạt La Đọa

Vị La Hán thứ nhất - Tôn giả Bạt La Đọa
Vị La Hán thứ nhất – Tôn giả Bạt La Đọa

Bạt La Đọa là một đại thần danh tiếng của vua Ưu Đà. Khi xuất gia, ông thường cưỡi hươu về cung để khuyên bảo quốc vương xuất gia. Về sau, khi quốc vương thoái vị nhường ngôi, ngài quyết định đi tu. Vì thế ông được gọi là “Tọa Lộc La Hán”.

2. Vị La Hán thứ hai – Tôn giả Già Phạt Tha

Vị La Hán thứ hai – Tôn giả Già Phạt Tha
Vị La Hán thứ hai – Tôn giả Già Phạt Tha

Ông từng là một nhà hùng biện của Ấn Độ cổ đại. Có người từng hỏi ông: “Thế nào là vui?” Ông trả lời rằng: “Từ thính giác, thị giác, xúc giác, vị giác, khứu giác mà cảm nhận được vị của niềm vui.” Người ta lại hỏi: “Thế nào là khánh (mừng)?” Ông đáp rằng: “Không do tai, mắt, mũi, miệng, tay mà cảm thấy vui thì đó là khánh, ví dụ như thành tâm hướng Phật, tâm cảm nhận thấy Phật thì vui.” Cũng vì thế, người ta gọi ông là Hỉ Khánh La Hán.

3. Vị La Hán thứ ba – Tôn giả Nặc Già Bạt Lý Đà

Vị La Hán thứ ba – Tôn giả Nặc Già Bạt Lý Đà
Vị La Hán thứ ba – Tôn giả Nặc Già Bạt Lý Đà

Tôn giả Nặc Gìa Bạt Lý Đà là một vị hòa thượng hóa duyên. Phương pháp hóa duyên của ông không giống người khác. Khi hóa duyên ông giơ bát lên cao để hướng về người xin ăn. Sau này người đời gọi ông là Cử Bát La Hán.

4. Vị La Hán thứ tư – Tôn giả Tô Tần Đà

Vị La Hán thứ tư – Tôn giả Tô Tần Đà
Vị La Hán thứ tư – Tôn giả Tô Tần Đà

Ông là đệ tử cuối cùng của Phật Đà. Để tưởng nhớ ngày được đi theo Phật Tổ, ông đã tự chế một cái tháp và luôn mang theo. Tháp là hình ảnh tượng trưng cho đức Phật. Vì vậy, người đời sau này gọi ông là Thác Tháp La Hán.

5. Vị La Hán thứ năm – Tôn giả Nặc Cự La

Vị La Hán thứ năm – Tôn giả Nặc Cự La
Vị La Hán thứ năm – Tôn giả Nặc Cự La

Tôn giả Nặc Cự La vốn là một võ sĩ. Sau khi xuất gia, vì muốn ông vứt bỏ tính cách lỗ mãng nên Đức Phật bắt ông ngồi tĩnh tọa. Khi ngồi tĩnh tọa, ông liền hiện ra thể trạng đại lực sĩ. Đây là lý do người đời sau gọi ông là “Tĩnh Tọa La Hán”.

6. Vị La Hán thứ sáu – Tôn giả Bạt Đà La

Vị La Hán thứ sáu – Tôn giả Bạt Đà La
Vị La Hán thứ sáu – Tôn giả Bạt Đà La

Vị Thập Bát La Hán này vốn là một người bồi bàn của Phật Tổ, quản việc tắm rửa cho Ngài. Mẹ của ông sinh ông ở dưới gốc cây Bạt Đà La, nên đã đặt tên ông là Bạt Đà La. Sau này khi ông đi truyền bá Phật giáo bằng thuyền vượt sông vượt biển nên có tên là “Quá Giang La Hán”.

7. Vị La Hán thứ bảy – Tôn giả Già Lực Già

Vị La Hán thứ bảy – Tôn giả Già Lực Già
Vị La Hán thứ bảy – Tôn giả Già Lực Già

Tôn giả Gìa Lực Gìa vốn là một người thuần phục voi. Ông có khả năng thuận phục voi lớn rất giỏi lại có thể nhìn xa. Vì vậy, người ta gọi ông là Kỵ Tượng La Hán.

8. Vị La Hán thứ tám – Tôn giả Phật Đà La

Vị La Hán thứ tám – Tôn giả Phật Đà La
Vị La Hán thứ tám – Tôn giả Phật Đà La

Vị La Hán này nguyên là một thợ săn dũng mãnh, ông còn có thể săn cả hổ và sư tử. Khi xuất gia, ông từ bỏ sát sinh nên khi được chứng quả La Hán. Lúc này có hai con sư tử đi đến cảm kích ông đã buông bỏ dao kiếm. Sau khi thành đạo, ông đã đưa hai con sư tử bên mình, vì vậy mọi người gọi ông là “Tiếu Sư La Hán”.

9. Vị La Hán thứ chín – Tôn giả Tuất Bác Già

Khai Tâm La Hán
Khai Tâm La Hán

Tôn giả Tuất Bác Gìa vốn là Thái tử Trung Thiên Trúc. Khi người em của ông muốn tranh ngôi vua với mình, ông nói: “Trong tâm ta chỉ có Phật, chứ không có Vương vị”. Hơn thế, ông còn mở lồng ngực của mình ra, người em nhìn thấy trong tim ông có một vị Phật nên không làm loạn nữa. Vì thế mà người đời gọi ông là “Khai Tâm La Hán”.

10. Vị La Hán thứ mười – Tôn giả Bạn Nặc Già

Thám Thủ La Hán
Thám Thủ La Hán

Ông từng là đứa trẻ được sinh ra ở ven đường trước khi trở thành Thập Bát La Hán. Ông là anh trai ruột của  La Hán Khán Môn. Mỗi khi ngồi đả tọa xong, ông liền giơ hai tay lên đầu và thở dài một hơi. Vì vậy nên sau này được người đời gọi là “Thám Thủ La Hán”.

11. Vị La Hán thứ mười một – Tôn giả La Hầu La

Trầm Tư La Hán
Trầm Tư La Hán

Ông là người con trai của Phật Thích Ca Mâu Ni. Về sau ông theo cha xuất gia, là một trong 10 đại đệ tử của Phật Đà. Ông được người đời gọi  với cái tên là “Trầm Tư La Hán”. Từ đó ông được đứng vào hàng ngũ Thập Bát La Hán.

12. Vị La Hán thứ mười hai – Tôn giả Na Già Tê

Oạt Nhĩ La Hán
Oạt Nhĩ La Hán

Vị La Hán thứ mười hai này vốn là một nhà lý luận. Nhờ luận “nhĩ căn” mà ông nổi tiếng thế nhân. “Nhĩ căn” chính là một trong số lục căn bao gồm: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Lục căn là khí quan chủ yếu để nhận thức thế giới. Muốn thành Phật, thì lục căn phải thật sự thanh tịnh. Trong lục căn thì nhĩ căn là thứ sinh ra nhận thức. Cho nên quan trọng nhất là nhĩ căn phải thanh tịnh. Bởi vì vị La hán này có nhĩ căn thanh tịnh nhất nên khi tạc tượng người ta thường đắp hình dáng của ông thành hình nhĩ căn. Vì thế, ông được gọi là “Oạt Nhĩ La Hán”.

13. Vị La Hán thứ mười ba- Tôn giả Nhân Già Đà

Bố Đại La Hán
Bố Đại La Hán

Tôn giả Nhân Gìa Đà vốn là người bắt rắn ở Ấn Độ cổ. Khi đi bắt rắn ông thường mang túi to để tránh cho người đi đường bị rắn cắn. Sau đó ông nhổ răng độc và thả chúng vào rừng núi. Khi đắc quả La Hán, bên thân ông luôn có chiếc túi nên người đời gọi ông là “Bố Đại La Hán”.

14. Vị La Hán thứ mười bốn- Tôn giả Phạt Na Ba Tư

Ba Tiêu La Hán
Ba Tiêu La Hán

Vị La Hán thứ mười bốn vốn là một người buôn bán. Ông được sinh ra vào một ngày mưa nên mẹ ôn đặt tên ông là Phạt Na Ba Tư (tiếng Phạn nghĩa là mưa). Sau khi xuất gia, ông thường đứng dưới cây chuối dụng công nên có tên là Ba Tiêu La Hán.

15. Vị La Hán thứ mười năm – Tôn giả A Thị Đa

Trường Mi La Hán
Trường Mi La Hán

Trước khi trở thành một trong 18 vị La Hán, ông nguyên là một hòa thượng. Khi sinh ra ông đã có lông mày trắng dài rủ xuống bởi kiếp trước ông chính là một hòa thượng tu hành.Khi  tu hành đến già, tóc đều rụng hết nhưng chỉ còn hai cọng lông mày dài. Sau khi chết đầu thai chuyển kiếp, lông mày này cũng được mang theo. Cha mẹ biết rõ ông là người tu hành nên lại đưa ông đi xuất gia. Cuối cùng ông tu thành La Hán và được gọi là Trường Mi La Hán.

16. Vị La Hán thứ mười sáu – Tôn giả Hán Đồ Bạn Trá Già

Khán Môn La Hán
Khán Môn La Hán

Tôn giả Hán Đồ Trá Gìa là em của vị La Hán Thán Thủ trong Thập Bát La Hán. Sau khi xuất gia, khi đi hóa duyên, ông  dùng nắm tay gõ cửa từng nhà để xin bố thí. Phật thấy cách của ông không ổn nên đã ban cho ông một cây gậy tích trượng. Lúc hóa duyên thì dùng cây gậy này rung lắc trước cửa, chủ nhà nghe âm thanh này sẽ vui mừng mà ra bố thí. Vì vậy ông được gọi là Khán Môn La Hán.

17. Vị La Hán thứ mười bảy – Tôn giả Vi Khánh Hữu

Hàng Long La Hán
Hàng Long La Hán

Vị La Hán này từng là một tên ác ma ở Ấn Độ cổ. Ông đã xúi giục, kích động người dân sát hại tăng nhân, hủy hết tượng Phật và cướp đi kinh Phật. Long Vương đã dùng nước bao phủ nơi đó để mang kinh Phật về long cung. Về sau Khánh Hữu hàng phục Long Vương, thu hồi kinh Phật. Cho nên, ông được gọi là Hàng Long La Hán.

18. Vị La Hán thứ mười tám – Tôn giả Vi Tân Đầu Lô

Hàng Long La Hán
Hàng Long La Hán

Tôn giả Vi Tân Đầu Lô vốn là một tăng nhân. Bên ngoài chùa của ông thường có hổ gầm. Nghĩ là hổ đói bụng, nên ông liền đem phần cơm của mình cho hổ ăn. Về lâu, hổ bị tấm lòng lương thiện của ông thuần phục. Đây cũng là lý do ông có tên là “Hàng Long La Hán”.